Tiến tới xây dựng một từ điển động từ với kết trị cú pháp (Dùng cho người nước ngoài): Luận văn ThS.Ngôn ngữ và văn hoá nước ngoài: 602202

Title: Tiến tới xây dựng một từ điển động từ với kết trị cú pháp (Dùng cho người nước ngoài): Luận văn ThS.Ngôn ngữ và văn hoá nước ngoài: 602202
Authors: Phạm, Thị Hồng Nhung
Keywords: Ngôn ngữ, Động từ
Issue Date: 2017
Publisher: H.: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Abstract: 10.1 Hiện nay, nhu cầu học tiếng Việt của người nước ngoài ngày càng tăng. Đó là một hệ quả tất yếu của sự hội nhập quốc tế và giao lưu văn hóa. Đáp ứng nhu cầu đó, hoạt động dạy tiếng Việt cũng ngày càng đa dạng hơn, cả về đối tượng học và về người dạy học. Việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến hoạt động dạy tiếng Việt cho người nước ngoài đã có khá nhiều, tuy nhiên chưa thực sự triệt để và chuyên nghiệp. Trong việc giảng dạy ngoại ngữ nói chung, việc dạy và học tiếng Việt nói riêng, ngày nay người ta đang có xu thế chuyển dần từ dạy ngữ pháp mô tả sang ngữ pháp giao tiếp, với các phát ngôn là đối tượng chính. Hạt nhân của các phát ngôn là các sự tình (state affairs). Trong tiếng Việt, đa phần các sự tình được biểu thị bằng Vị ngữ – Động từ. Như vậy, nếu muốn đạt hiệu quả trong dạy và học tiếng Việt thì phải ưu tiên cho việc học và rèn luyện động từ cũng như cách dùng động từ. 10.2 Về sự tồn tại của động từ tiếng Việt, từ trước đến nay luôn có rất nhiều ý kiến nhưng có hai ý kiến trái ngược nhau. Ý kiến thứ nhất phủ nhận sự tồn tại của động từ và ý kiến thứ hai thừa nhận sự tồn tại của động từ. Ý kiến thứ hai thừa nhận sự tồn tại của động từ, nhưng những người theo ý kiến này lại khác nhau về điểm xuất phát cũng như về kết quả đạt được. Nguyễn Kim Thản chủ trương phân định từ loại dựa vào cả ý nghĩa lẫn hình thức ngữ pháp. Những tác giả chủ trương xuất phát từ ý nghĩa để xác định loại từ là Đinh Văn Đức, Trần Trọng Kim, Bùi Đức Tịnh, Nguyễn Lân,… Các tác giả chứng minh sự tồn tại của danh từ và động từ tiếng Việt bằng cách đối lập khả năng kết hợp của hai từ loại, như khả năng kết hợp với những từ chỉ định( này, kia…), với từ chỉ sở thuộc, với đại từ (có là và không có là), với định ngữ tính từ (danh từ thì kết hợp trực tiếp, động từ thì có thể có từ cho), với những từ phủ định. Gần đây, qua một số công trình nghiên cứu như của Cao Xuân Hạo, Nguyễn Thị Quy, Nguyễn Văn Lộc...việc nghiên cứu động từ nói chung cũng như động từ chủ động nói riêng đã có phần rõ nét hơn.Tuy nhiên, về động từ chủ động đến nay hầu như chưa có công trình nào nghiên cứu có hệ thống và chuyên sâu. 10.3 Thuật ngữ kết trị (còn được gọi là hoá trị, ngữ trị) vốn được dùng đầu tiên trong hoá học, để đánh dấu khả năng của các nguyên tử làm hình thành các mối liên kết hoá học. Thuật ngữ này được dùng trong ngôn ngữ học vào những năm 40 của thế kỉ XX để “đánh dấu khả năng kết hợp của từng kí hiệu ngôn ngữ có thể có với các kí hiệu khác để tạo thành giá trị chung nhiều hơn hoặc ít hơn giá trị của các yếu tố đó cộng lại”. Theo cách hiểu hẹp, kết trị chỉ là thuộc tính kết hợp của động từ hoặc một số từ loại nhất định. Như vậy, lí thuyết kết trị ban đầu chỉ được sử dụng ở phạm vi hẹp, nói cách khác, mới chỉ được dùng để nghiên cứu thuộc tính kết hợp của từ. Kết trị của động từ là khả năng của động từ tạo ra xung quanh mình các vị trí mở cần hoặc có thể làm đầy bởi những thành tố cú pháp (những thực từ) mang ý nghĩa bổ sung nhất định. Nói cách khác, kết trị của động từ là thuộc tính của động từ kết hợp vào mình những thành tố cú pháp bắt buộc hay tự do. Thuộc tính kết hợp này hàm chứa trong ý nghĩa của bản thân động từ. Nó chính là sự phản ánh những đòi hỏi hoặc khả năng của động từ được cụ thể hoá về mặt nào đó”. 10.4 Nhiệm vụ được đặt ra ở đây, lựa chọn các động từ và giải thích chúng như thế nào để vừa đáp ứng được nhiệm vụ dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ, vừa có thể ứng dụng nhuần nhuyễn chúng trong đời sống hàng ngày mà vẫn phù hợp với đối tượng sử dụng được hướng đến là người nước ngoài. Tài liệu tham khảo chính được sử dụng ở đây là cuốn từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, tái bản năm 2010), qua hai lần chỉnh lý với 39.924 từ ngữ, trong đó ghi nhận được 10.660 động từ tiếng Việt, bao gồm tất cả những từ ngữ thường dùng trong đời sống và thường gặp trên sách báo, các từ ngữ phương ngữ phổ biến, có tính ứng dụng cao trong đời sống hàng ngày cho đến các thuật ngữ khoa học – kỹ thuật thông dụng. Với sự phân hóa rõ rết như vậy, nguồn từ vựng bao gồm cả từ cơ bản cho đến thuật ngữ này hoàn toàn có thể đáp ứng được yêu cầu dạy và học tiếng Việt. 10.5 Dựa vào số lượng diễn tố, L. Tesnière chia động từ thành động từ không diễn tố hay động từ vô trị (verb avalent), động từ một diễn tố hay động từ đơn trị (verb monovalent), động từ hai diễn tố hay động từ các nguyên tử khác, còn được gọi là song trị (verb trivalent), động từ ba diễn tố hay động từ tam trị (verb divalent). 10.6 Kết quả nghiên cứu là sự đề xuất một bảng động từ tiếng Việt dưới dạng một từ điển. Cho đến nay, chưa có bất kì một tài liệu nào lập danh sách động từ với tư cách là một hướng dẫn cho người học. Bởi vậy, ở luận văn này, chúng tôi chủ trương bù đắp vào sự thiếu hụt đó, bằng cách tiến tới xây dựng một từ điển động từ cho người học.
Description: 62 tr.
URI: http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/60184
Appears in Collections:USSH - Master Theses

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Pháp luật về an toàn lao động ở Việt Nam : Luận án TS. Luật: 62 38 50 01

Fluidic Capacitive Sensor for Detection of Air Bubble Inside Engine Lubricating Oil

Effects of some plant proteinase inhibitors on several bacteria influenced meat quality = \b Nghiên cứu tác dụng của một số chất ức chế proteinase có nguồn gốc protein thực vật đến một số vi khuẩn gây ảnh hưởng chất lượng thịt. Luận văn ThS. Công nghệ sin